Kinh Văn 59 – Mạch Chứng Và Cách Chữa Bệnh Ngược (Sốt Rét) – Y Gia Quán

Kinh văn:

Bệnh ngược; dì nguyệt nhất nhật phát, đáng di thập ngũ nhật dù, thiết bất sai, đáng nguyệt tạn giải, như kỳ bất sai, đáng vân hà?

Sư viết: thử kết vị trưng hà (1) danh viết ngược mâu cấp trị chị, nghỉ miết giáp tiễn hoãn.

Chú thích:

1) Trưng hà: bệnh trong bụng có khối tích hoặc trướng hoặc đau, có 2 loại khác nhau, thử có hình, có khối cố định, khẳng di dịch, đau ở một chỗ gọi là trưng, trưng thuộc bệnh tạng, thuộc về phản huyết. Một thử không có hình cố định, khi tụ khí tán, đau không có chỗ nhất định gọi là hà, bà là bệnh thuộc phú thuộc về phần khí.

Dịch nghĩa:

Bệnh sốt rét phát ngầy 1 của tháng nên đến ngầy 15 thì khỏi, nếu như không bớt thì giải ở cuối tháng, nếu lại không bớt thì phải như thế nào?

Thầy nói: Đó là Kết làm Trưng Hà gọi là Ngược mẫu, phải trị gấp nên dùng Miết Giáp Tiển hoàn làm chủ.

Trình Lâm chú:

5 ngầy là 1 hậu, 3 bậu là 1 khí, 1 khí là 15 ngầy. Con người chịu ảnh hưởng của thiên khí khi khí tiết biến chuyền thì dinh vệ nhân đó mà biến đổi cho nên giao một tiết khí thì bệnh khói nếu chưa khỏi thì lại biến đời, 1 tiết khí nữa, cho nên cuối tháng bệnh giải trừ.

Vưu tại kinh chú:

Nếu khí đổi mà bệnh không khỏi thì tà khí đã ngấm vào huyết, dựa vào đàm mà kết thành trưng hà, chạy xuống dưới, hông, bênh thế trở nên ngoan cố khó chữa, vì thế phải chữa gấp. Miết giáp tiễn hoàn có nhiều thuốc hành khí trục huyết nhưng không sợ tính chất manh của nó, uống 1 ngầy 3 lần mà không sợ liều lượng đó là gấp. Đó là nhân lúc bệnh chưa tụ tấp mà đánh ngay.

MIẾT GIÁP TIỂN HOÀN PHƯƠNG

Miết Giáp 13 phân Xạ Can 3 phân đốt
Hoàng Cầm 3 phân Sài Hồ 6 phân
Cù Mạch 2 phân Xích Tiêu 12 phân
Khương Lang 6 phân Đào Nhân 12 phân
Đình Lịch,Nhân Sâm mồi vị 1 phân Phong Oa đem nướng 4 phân
Can Khương, Đại Hoàng, Quế Chi, Thạch Vi (bỏ lông), Hậu Phác, Tử Uy, Bán Hạ, A Giao, Thược Dược, Mẫu Đơn, Giá Trùng mồi vị 5 phân.
23 vị trên tán bột, lấy 1 đấu tro bếp lò rèn, rượu trong 1 hộc 5 đấu, ngâm tro đợi cho rượu cạn hết phân nửa cho Miết Giáp vào trong nấu nát nhừ như keo sơn, vắt lấy nước cốt cho các thuốc vào cô đặc làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, lúc bụng đói uống 7 hoàn, ngầy 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc:

Nội kinh nói: “Kiên thì làm cho nhuyễn, kết thì làm cho hành” cho nên trong phương thuốc miết giáp nhuyễn kiên tán kết để công khối trưng hà hàn nhiệt làm chủ được. Đại hoàng, xích thược, địa miết trùng đào nhân, xích tiêu, đan bì, thử phụ, tử úy, phòng phong, khương lang để phá công ứ và sưu tà thông 63 lạc là các vị phụ trợ chủ yếu (thần dược) lại dùng hậu phác, bán hạ, đình lịch, xa can, thạch vi, củ mạch để hạ khí hóa đàm, lợi thủy, dần hàn thấp đi xuống dưới, lại dùng quế chi, can khương tán hàn, sài hồ, hoàng cầm thanh nhiệt, nhân sâm ích khí; A giao dưỡng huyết bổ hư, tro lòng bếp giúp miết giáp nhuyễn kiên tán kết, rượu giúp các vị thuốc ôn vận. Tuy dùng lượng thuốc ít mà dần đần tiêu được bĩ gọi là phép “Tuấn dược hoàn công”. Tuy dùng dược phức tạp, nhưng phôi ngũ lại có ý nghĩa nhất định.

Người đăng: BS.Trần Văn Toàn

🔎 Tra cứu thông tin tiện ích hơn trên App Tuệ Y

🌐 Link tải CH Play: Tuệ Y

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo