Huyệt Vân Môn – Y Gia Quán

  • Ý nghĩa tên huyệt:

     

    • “Vân có nghĩa là mây, là khí của sông núi. Mây xuất ở thiên khí mà thiên khí thông với Phế
    • “Môn” có nghĩa là cửa ra vào, nơi ra vào thông thương.
    • “Vân Môn” là cửa ra vào cũng là nơi xuất phát của Thủ Thái Âm Phế mạch.
    • Tên gọi này có được là do sự so sánh giữa khí và huyết nơi cơ thể con người với mây cao trên bầu trời, nó nuôi dưỡng mọi hình thức trên trái đất ở bên dưới. khí và huyết của kinh này trước tiên nổi lên từ Vân Môn thông chảy tới Kỳ môn là huyệt của kinh can. Người ta cho khí xuất như mây nên gọi là Vân Môn

 

  • Thuộc kinh: Thủ thái âm phế

 

  • Vị trí:

     

    • Vân Môn nằm phía trên bên ngoài thành trước ngực bờ dưới xương đòn, ngang với cơ ngực lớn, chỗ hõm giữa cơ delta, từ đường dọc chính giữa xương ngực đo ngang ra mỗi bên 6 thốn.

 

  • Giải phẫu thần kinh

     

    • Dưới huyệt là rãnh delta ngực, cơ ngực to, cơ delta, cơ dưới đòn, cơ răng cưa to và cơ gian sườn 1
    • Thần kinh vận động cơ là dây thần kinh ngực to, dây mũ, dây dưới đòn, dây răng cưa to của đám rối nách và dây gian sườn 1
    • Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh C3, C4

 

  • Công năng: Thông kinh lưu thông khí, túc giáng Phế khí

 

  • Chủ trị:

     

    • Tai chỗ, theo kinh: Trị ho, đau ngực, bồn chồn trong ngực, tức ngực, suyễn, viêm quanh khớp vai.

 

  • Phương pháp châm cứu

     

    • Châm: xiên, sâu 0.5-1 thốn
    • Cứu: 3-7 lửa
    • Ôn cứu: 5-15 phút

 

  • Tham khảo:

     

    • <<Tố vấn – Thủy nhiệt huyết luận thiên>> ghi rằng: "8 huyệt gồm Vân môn, Ngung cốt, Ủy trung, Tủy không, nhằm tả nhiệt ở tứ chi".
    • <<Giáp Ất>> quyến thứ 8 ghi rằng: "Đau bụng tim đột ngột, khi sán tích xông phát lên tới tim, dùng huyệt Vân môn để trị".
    • <<Giáp Ất>> quyến thứ 9 ghi rằng: "Ho suyễn không thở được, chỉ ngồi mà không thể nằm, hô hấp khí lìa tan, nuốt không được, trong ngực nóng thì chọn huyệt Vân môn làm chủ".
    • <<Giáp t>> quyến thứ 10 ghi rằng: "Đau vai không cử lên được, đau xuyên tới Khuyết bồn thì chọn huyệt Vân môn làm chủ".
    • <<Giáp Ất>> quyến thứ 11 ghi rằng: "Mạch đại không tới thốn khẩu, tứ nghịch mạch khua không thông, chọn huyệt Vân môn làm chủ".
    • <<Thiên kim>> quyến thứ 18 ghi rằng: "Khí xốc lên đầy tức ngực, khí ngắn họ xốc, cứu huyệt Vận môn 50 lửa".
    • <<Đại thành>> quyến thứ 6 ghi rằng: "Vân môn chủ về thương hàn, tay chân nóng không dứt, ho xốc, thở suyễn không nằm được, ngực hông thiếu khí, khí xốc ngược lên tim làm trong ngực đầy bứt rứt xót xa, đau từ hông xuyên ra lưng, lưng sưng tắt, đau vai không cử lên được, bướu cổ loại anh khí".
    • <<Giáp Ất>> ghi rằng: "Chấm huyệt này vào sâu quá sẽ làm cho người ta thở tốt". Trên lâm sàng chúng ta cần nên nắm vững góc và độ sâu lúc châm, không nên châm sâu quá vào bên trong, đề phòng phạm tới phổi.
    • <<Ngọc long ca>> ghi rằng: "Suyễn khò khè nhỏ ra đờm dãi nhiều, nếu dùng kim để châm thì bệnh sẽ bớt. Kết hợp với hai huyệt Du phủ, Nhũ căn thì suyễn và phong đàm sẽ bớt dần".
    • <<Phối huyệt khái luận giảng nghĩa>>: Thường kết hợp hai huyệt Vân môn và Du phủ, vì Vân môn là nơi phát ra mạch khí của Thủ thái âm Phế kinh, Du phủ là nơi phát ra mạch khí của Túc thiếu âm Thần kinh. Cả hai đều có vị trí nằm trên cao của ngực, tuy nhiên đường vận hành kinh mạch của chúng không giống nhau. Kinh Phế đi từ ngực ra cánh tay, kinh Thận đi từ chân đến ngực. Kinh đi với tay thì tuyên thông ở phần trên, kinh đi với chân có tác dụng liễm giáng xuống dưới. Chứng bệnh ho kèm thở thô gấp thì đặt "tiêu" ở Phế và "bản" ở Thận. Phế và Thận cùng bệnh, Phế thọ tà khí thì ho, trong khi ấy Thận hư không nạp tàng được khí, vì khí không quy về "căn" (gốc) mà lại đi nghịch lên trên thành suyễn. Do đó, chọn huyệt Vân môn là để tuyên thông Phế khí, tuyên sướng khí ở ngực, giáng nghịch khí. Chọn Du phủ là để bổ thận, nạp khí, liễm xung khí, giáng nghịch khí. Kết hợp thêm Nhu căn để làm an được xung khí, giáng xung khí, nó thuận theo khí của dương kinh, trợ giúp cho Vân môn trong việc tuyên khí và giáng khí, trợ giúp cho Du phủ trong việc liễm khí và nạp khí.

 

  • Phối huyệt

     

    • Phối Khuyết Bồn (Vi.12) trị vai đau không đưa lên cao được (Giáp Ất Kinh).
    • Phối Ẩn Bạch (Ty.1) + Hồn Môn (Bq.47) + Kỳ Môn (C.14) + Phế Du (Bq.13) + Trung Phủ (P.1) trị vai đau (Thiên Kim Phương)
    • Phối Bỉnh Phong (Ttr.12) trị vai đau (Tư Sinh Kinh).
    • Phối Chi Câu (Ttu.5) + Cực Tuyền (Tm.1) + Thiên Trì (Tb.1) + Trung Phủ (P.1) trị cơ nhục bị phong thấp (Châm Cứu Học Thủ Sách).
    • Phối Du Phủ (Th.27) + Nhũ Căn (Vi.18) trị suyễn (Phối Huyệt Kinh Lạc Giảng Nghĩa).
    • Phối Xích Trạch, Liệt Khuyết trị hen suyễn

 

Người đăng: BS.Trần Văn Toàn

🔎 Tra cứu thông tin tiện ích hơn trên App Tuệ Y

🌐 Link tải CH Play: Tuệ Y

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo