Huyệt nằm ở trong chỗ hõm giữa các xương. Ở đây được ví như nó với thung lũng giữa các ngọn núi. Thường để chữa sình bụng, khí hư hạ hãm, nên có tên là Hãm Cốc (Thung lũng chìm).
Vị trí:
Giữa kẹt 2 ngón chân thứ 2 và 3. Huyệt ở chỗ nối thân và đầu trước xương bàn chân 2.
Giải phẫu, thần kinh:
Dưới huyệt là khe giữa các gân duỗi các ngón 2 và 3 của cơ duỗi dài và cơ duỗi ngắn các ngón chân, cơ gian cốt mu chân 2 khe giữa xương bàn chân 2 và 3.
Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh. chày sau
Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh L5.
Đặc tính:
“Du” huyệt, thuộc “Mộc”
Chủ trị:
Tại chỗ: Đau khớp cổ chân.
Theo kinh: Phù mặt, viêm kết mạc, sôi ruột, đau bụng.
Toàn thân: Ít-tê-ri, phù thũng, sốt không có mồ hôi.
Phương pháp châm cứu
Châm: Xiên, sâu 0,5 – 1 thốn.
Cứu: 3 – 7 lửa.
Ôn cứu: 5 phút.
Tham khảo:
<<Giáp Ất>> quyến thứ 8 ghi rằng: “Nước đình lưu ở bên trong, ngực sườn trường nước, châm Hãm Cốc nặn ra máu”.
<<Giáp Ất>> quyến thứ 11 ghi rằng: “Mắt sưng nhọt mắt, châm Hãm Cốc ra máu”
<<Tư sinh>> ghi rằng: “Hãm Cốc, Kỳ môn trị sau đẻ hay ợ hơi. Hãm Cốc, Huyền chung trị trướng bụng”.
<<Bách chứng phú>> ghi rằng: “Sôi ruột dùng Hạ quản, Hãm Cốc” (Phúc nội trường minh, Hạ quản, Hãm Cốc năng bình).
Theo “Linh khu – Bản du” ghi rằng. Huyệt này là “Du” huyệt của Túc Dương minh kinh.
Phối huyệt:
Phối Tuyệt cốt trị đầy bụng (Tư sinh).
Phối Hạ quản trị sôi ruột (Bách chứng).
Phối Hạ quản trị bụng căng, sôi ruột.
Phối Hạ lăng trị trướng bụng, sôi ruột.
Phối Thiên Khu, Đại trường du, Thái bạch, Công tôn trị đau bụng.