ECG Nhịp nhanh vào lại nút nhĩ thất (AVNRT) – Y Gia Quán

TÌNH HUỐNG LÂM SÀNG

Bệnh nhân nữ, 23 tuổi.

Lý do vào viện
Đánh trống ngực.

Bệnh sử
2 năm nay có nhiều cơn đánh trống ngực, kéo dài ít phút, bắt đầu và kết thúc đột ngột. Cơn xuất hiện đột ngột 2h trước khi nhập viện.

Tiền sử
Nhiều cơn đánh trống ngực tương tự 2 năm nay.

Khám
Mạch: 180 bpm, đều.
Huyết áp 112/72 mmHg.
JVP: Không nổi
Tim phổi: Bình thường.

Xét nghiệm
CTM: Hb 13.5, B.cầu 5.2, Tiểu cầu 302.
U&E: Na 140, K 4.4, urea 4.5, creatinine 73.
XQ ngực: Bình thường

Câu hỏi:
1. ECG trên là gì?
2. Cơ chế gây nên ECG trên?
3. Nguyên nhân nào gây nên?
4. Chìa khóa để xử trí là gì?

 

ĐÁP ÁN

Phân tích ECG:
Tần số: 180 bpm
Nhịp: Nhịp nhanh vào lại nút nhĩ thất
Trục QRS: Bình thường (+22°)
Các sóng P: Quan sáng thấy sóng P âm nhỏ ở cuối mỗi phức bộ QRS ở chuyển đạo dưới
Khoảng PR: Không áp dụng được
Khoảng QRS: Bình thường (60 ms)
Các sóng T: Bình thường
Khoảng QTc: Bình thường (450 ms)

Trả lời:
1. Nhịp nhanh vào lại nút nhĩ thất (AVNRT).

2. Vòng vào lại bao gồm 2 con đường qua nút nhĩ thất – 1 đường dẫn truyền nhanh nhưng thời gian trơ dài, đường còn lại dẫn truyền chậm nhưng thời gian trơ dài hơn.

3. Block thoáng qua nút nhĩ thất có thể cắt cơn AVNRT. Các biện pháp bao gồm:
+ Nghiệm pháp Valsalva
+ Xoa xoang cảnh
+ Adenosine tĩnh mạch
+ Verapamil tĩnh mạch.

4. Bệnh nhân có thể được hướng dẫn nghiệm pháp Valsalva để cắt cơn cấp. AVNRT tái phát cần yêu cầu điều trị với các thuốc chống loạn nhịp (e.g. sotalol, verapamil, flecainide) hoặc thăm dò điện sinh lý để thực hiện thủ thuật cắt đốt bằng sóng cao tần.

Bàn luận:
• Ở bệnh nhân có 2 đường qua nút nhĩ thất, xung động đến nút nhĩ thất bình thường sẽ chia đôi để di chuyển xuống dưới tại cùng thời điểm nhưng xung động qua đường nhanh sẽ đến nó His trước và khử cực tâm thất. Sau đó xung động đi theo đường chậm mới đến bó His nhưng bó His đã trơ nên xung động không được truyền đi xuống để khử cực thất.
• Tuy nhiên, nếu xuất hiện nhát lạc vị trên thất trong thời gian trơ của đường dẫn truyền nhanh thì nhát lạc vị sẽ đi theo đường dẫn truyền chậm , sau đó khi xung động đi đến cuối đường dẫn truyền chậm thì đường nhanh đã hết thời kì trơ và có thể tái cực. Do đó, xung động sẽ đi vòng lên theo đường dẫn truyền nhanh, rồi lại vòng xuống qua đường dẫn truyền chậm, và cứ lặp lại. Dạng phổ biến của AVNRT là vòng vào lại chậm-nhanh, vòng vào lại nhanh – chậm và chậm-chậm cũng có thể xảy ra.
• Trong AVNRT, sóng P thường khó hoặc không thể xác định được. ¼ các @Tình huống lâm sàng: Chúng lẫn trong phức bộ QRS, trong 2/3 các @Tình huống lâm sàng: Khác , chúng có thể nhìn thấy là 1 sóng nhỏ âm tính ở cuối phức bộ QRS ở các chuyển đạo dưới , và/ hoặc sóng dương nhỏ ở cuối phức bộ QRS ở V1. Ở 1 số ít các @Tình huống lâm sàng:, sóng P có thể tìm thấy trước phức bộ QRS.
• AVNRT phổ biến hơn 10 lần so với AVRT . ECG trong nhịp xoang của AVNRT thường bình thường còn trong AVRT có thể phát hiện Khoảng PR: Ngắn hoặc sóng delta, gợi ý hội chứng WPW. Phân biệt giữa AVNRT và AVRT đôi khi rất khó khăn, cần đòi hỏi thăm dò điện sinh lý.

 

Nguồn: MAKING SENSE of the ECG – Andrew R Houghton and David Gray

🔎 Tra cứu thông tin tiện ích hơn trên App Tuệ Y

🌐 Link tải CH Play: Tuệ Y

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo