I. Khái niệm:
Chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu là tên gọi chung cho những biểu hiện lâm sàng đàm nhiệt quấy nhiễu ở trong. Đởm mất sự sơ tiết, khí uất sinh đàm; Bệnh phần nhiều do thất tình uất kết, khí cơ không thư sướng gây nên.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là chóng mặt, đắng miệng, buồn nôn, phiền táo, mất ngủ, ngực khó chịu, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Huyền Hoạt.
Chứng này thường gặp trong các bệnh Huyễn vựng, Bất mị, Khí uất.
Cần chẩn đoán phân biệt chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu với các chứng Đàm hỏa quấy nhiễu Tâm, chứng Can hỏa thượng viêm, chứng Can Đởm thấp nhiệt và chứng Đởm nhiệt.
II. Phân tích:
Lâm sàng có nhiều tật bệnh có chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu, có những đặc điểm riêng và điều trị cũng khác nhau, cần phải phân biệt.
- Chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu gặp trong bệnh Huyễn vựng do Đởm mất sự sơ tiết, khí uất sinh đàm, đàm trọc dẫn động Can dương gây nên, tuy lấy váng đầu hoa mắt là chứng trạng chủ yếu, nhưng do Đởm kinh uất nhiệt, đảm trọc nghẽn ở trong cho nên thường thấy kiêm chứng đắng miệng, nôn mửa, ngực khó chịu, sườn phải đầy tức, biếng ăn, ngủ hay mê; Điều trị nên thanh nhiệt hóa đàm, bình Can tiềm dương, cho uống bải Ôn Đởm thang (Thiên kim phương) linh hoạt gia Thiên ma, Câu đằng.
- Bệnh Bất mị xuất hiện chứng Đởm uất Đàm quấy nhiễu do tình chí tổn thương ở trong, Đởm mất sơ tiết, uất mà hóa nhiệt, khí uất thì đàm sinh ra, đàm nhiệt quấy nhiễu ở trong, tâm thần không yên gây nên, có chứng trạng đặc chưng là phiền táo, không ngủ được, hay mê, dễ kinh hãi, kiêm cả chứng đắng miệng, họng khô tiểu tiện vàng đỏ, chất lưỡi vàng nhớt, mạch Huyền Sác; Điều trị nên thanh nhiệt hóa đàm, dưỡng Tâm an thần, cho uống bài Hoàng liên ôn Đởm thang (Lục nhân điều biện) linh hoạt gia Viễn trí, Táo nhân.
- Chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu gặp trong bệnh Khí uất, bệnh cơ chủ yếu là khí cơ bị uất trệ, đờm rãi kết tụ, cho nên thường gặp các chứng trạng trong họng khó chịu như vướng mắc vật gì, khạc không ra nuốt không vào, ngực sườn khó chịu và đau, rêu lưỡi mỏng mà nhớt, mạch Huyền Hoạt; Điều trị nên thanh nhiệt hóa đàm, điều khí giải uất, cho uống bài Ôn đởm thang linh hoạt gia Lệ chi hạch và Thị Đế.
Người mập có nhiều thấp, dễ tụ thấp đàm, cho nên chứng nầy hay gặp ở người béo mập, nhất là người có tính tình nóng nẩy, đa sầu đa cảm càng dễ mắc chứng này.
Đởm khí uất trệ, đàm trọc ngăn ở trong dễ làm trở ngại khí cơ đến nỗi Vị mất sự hòa giáng, cho nên chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu thường có kiêm cả Vị khí nghịch lên mà có chứng buồn nôn gây ọe v.v…
III. Chẩn đoán phân biệt:
- Chứng Đàm hỏa quấy rối Tâm với chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu, cả hai có đàm nhiệt gây nên các chứng trạng về thần trí, thường dễ lẫn lộn. Nhưng chứng Đàm hỏa quấy rối tâm có nguyên nhân và cơ chế bệnh phức tạp hơn chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu, hoặc tổn thương do thất tình, khí uất hóa hỏa, chưng đốt tân dịch thành đàm, đến nỗi đàm hỏa quấy nhiễu Tâm; Hoặc do ngoại cảm nhiệt tà kết hợp với đàm ở bên trong quấy nhiễu tâm thần. Trên lâm sàng, chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu có biểu hiện khí cơ không sơ thông như ngực khó chịu và nôn ọe. Chứng Đàm hỏa quấy nhiễu Tâm thì có biểu hiện hỏa nhiệt quá thịnh như mặt đỏ thở thô, táo bón tiểu tiên đỏ, còn Đàm hỏa quấy nhiễu tâm thần thì có thể biểu hiện cuồng táo, cười khóc thất thường.
- Chứng Can hỏa thượng viêm với chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu, cả hai đều có thể do thất tình nội thương gây nên. Loại trên do Can uất hóa hỏa xông lên đầu mắt thường xuất hiện váng đầu hoa mắt, miệng đắng họng khô, rất dễ lẫn lộn với chứng Đởm nhiệt đàm quấy nhiễu. Nhưng chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu biểu hiện chủ yếu ở hai thứ “Đờm” và “Uất” cấu kết, như ngực khó chịu, hay thở dài, lợm giọng buồn nôn, phiền táo không ngủ được, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Huyền Hoạt. Còn chứng Can hỏa thượng viêm thì biểu hiện chủ yếu ở “Đờm” và “Nhiệt” bốc lên, như mặt đỏ tai đỏ, nóng nảy dễ giận, vùng sườn đau rát, táo bón tiểu tiện đỏ, thậm chí thổ huyết nục huyết, lưỡi đở rêu vàng xốp, mạch Huyền Sác là những đặc trưng của chứng này.
- Chứng Can Đởm thấp nhiệt với chứng Đởm uất đàm quấy nhiều: Can Đởm cùng biểu lý, Đởm uất thường dẫn đến Can uất; cho nên hai chứng đều có biểu hiện Can Đởm uất nhiệt như đắng miệng, vùng sườn khó chịu. Trên cơ chế bệnh, Đờm với nhiệt có quan hệ rất chặt chẽ, lại đều có thể làm nghẽn trở khí cơ, xuất hiện các chứng trạng, kém ăn, nôn ọe. Hai chứng khá giống nhau, cần phân biệt rõ. Nguyên nhân và cơ chế bệnh của chứng Can Đởm thấp nhiệt khá phức tạp, phần nhiều do cảm nhiễm ngoại tà thấp nhiệt gây nên, cũng có thể do nghiện rượu hoặc ham ăn đồ béo ngọt, nung nấu thành thấp nhiệt, hoặc do Ty Vi vận hóa thất thường, thấp trọc từ trong sinh ra, uất lại hóa nhiệt gây nên, không giống chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu lấy thất tình nội thương, khí cơ bị uất kết làm nguyên nhân chủ yếu. Xu thế nhiệt của chứng Can Đởm thấp nhiệt từ từ, cho nên biểu hiện chủ yếu là chóng mặt, đắng miệng, phiền táo không ngủ được, ngực khó chịu, mạch phần nhiều Huyền Hoạt. Chứng Can Đởm thấp nhiệt thì nhiệt tà khá thịnh, biểu hiện lâm sàng có nhiều tình huống, như thấp nhiệt cùng nung nấu, đởm chấp tràn ra ngoài, có thể thấy mình và mắt phát sinh màu vàng; Nếu thấp nhiệt ngăn trở khí cơ ở trung tiêu, thăng giáng của Tỳ Vị mất bình thường, có thể thấy các chứng lợm giọng buồn nôn, biếng ăn trướng bụng, đại tiện không đều, mạch phần nhiều Huyền Sác. Nếu thấp nhiệt dồn xuống dưới, có thể thấy các chứng âm nang nổi nốt ẩm ưới, cao hoàn sưng đau, vùng ngoại âm của phụ nữ bị ngứa, đới hạ ra sắc vàng mùi hôi.
- Chứng Đởm nhiệt với chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu: Cả hai đều liên can đến tình chí không điều hòa, hơn nữa trên lâm sàng đều có các chứng không ngủ được và đắng miệng; Có nhiều chỗ giống nhau, cần phân biệt. Chứng Đởm nhiệt do thất tình nội thương, Đởm uất hóa nhiệt; Lâm sàng thấy biểu hiện riêng lẻ nhiệt làm úng tắc Đởm phủ như các chứng trạng đầu váng mắt hoa, đắng miệng họng khô, ngực sườn đầy, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền; Còn chứng Đởm uất đàm quấy nhiễu thì lấy tình chí không điều hòa làm chủ yếu, thường do Đởm mất sự sơ tiết, khí uất đàm sinh ra, đàm trọc vít lấp gây nên, nếu kiêm nhiệt thì cũng xuất hiện đẳng miệng, họng khô mà chứng trạng chủ yếu là choáng váng buồn nôn, tinh thần ức uất, phiền táo mất ngủ, ngực khó chịu v.v..
IV. Trích dẫn y văn:
Thượng tiêu là Dương, nơi quản lý của Vệ khí, quý ở chỗ lưu thông mà ghét tà khí vít lấp, nếu bị uất thì tân dịch không lưu thông, tích lại thành Đờm rãi. Đởm lấy họng làm sứ, chủ quyết đoán, gặp chuyện thất tình mà không quyết đoán thì hỏa uất không phát được, hỏa uất thì bốc lên không đạt, không đạt thì khí bị âm ỉ, kết tụ với đờm rãi ở trong ngực, chẳng khác gì như bị nướng chả (Uất – Trương thị y thông).
Nguồn: Chẩn đoán phân biệt chứng hậu trong đông y – Trần Bính Côn
🔎 Tra cứu thông tin tiện ích hơn trên App Tuệ Y
🌐 Link tải CH Play: Tuệ Y