I. Khái niệm:
Chứng Đàm ứ câu kết là tên gọi chung cho những biểu hiện lâm sàng do Đàm trệ với Ứ huyết câu kết làm trở ngại khí cơ gây nên bệnh. Chứng này là do Tạng Phủ công năng mất điều hoà, huyết ứ tụ thấp sinh đàm hoặc đàm trệ làm trở ngại Huyết gây nên Ứ; Đàm trệ với Ứ huyết giao kết gây nên.
Biểu hiện lâm sàng của chứng này vì bộ vị ứ nghẽn khác nhau, cho nên biểu hiện chủ yếu là tê dại nặng nề, đau nhói không di chuyển, bệnh lâu không khỏi, gặp lạnh đau tăng, gặp ấm dễ chịu; Trong cơ thể có khối sưng cố định không di chuyển; tinh thần không tỉnh táo hoặc cuồng táo không yên, chất lưỡi tía tối, rêu lưỡi dầy nhớt.
Chứng Đàm ứ câu kết thường gặp trong bệnh Hung tý, Tý chứng, Phế ung, Cuồng chứng, Di chứng, Trúng phong, Trưng Hà v.v.
Cần chẩn đoán phân biệt với chứng Phong đàm, chứng Huyết ứ.
II. Phân tích:
Chứng Đàm ứ câu kết thường gặp trong những bệnh dằng dai lâu ngày, chữa chạy khá lâu không khỏi; trong tật bệnh khác nhau sẽ biểu hiện chứng trạng khác nhau.
– Chứng Đàm ứ cậu kết xuất hiện trong bệnh Hung Tý, có chứng trạng vùng ngực đau nhói xiên sang lưng, điểm đau cố định, ban đêm bị nhiễm lạnh thường đau nặng hơn, khạc nhổ và họ ra đờm rãi, chất lưỡi tía tối, rêu lưỡi dày nhớt; Đây là do hàn đàm ứ huyết câu kết ở vùng ngực, lạc mạch không thông, khí cơ bị nghẽn trệ gây nên; điều trị nên hoá đàm trừ ứ, tuyên Tý thông dương, cho uống Quát lậu bán hạ giới bạch thang (Kim quỹ yếu lược) hợp với Huyết phủ trục ứ thang (Y lâm cải thác).
– Trong Tý chứng xuất hiện chứng Đàm ứ câu kết, có các chứng trạng đặc trưng cục bộ đau nhói kịch liệt, cố định không di chuyển, gặp hàn thì đau tăng, ban đêm cũng nặng hơn, kiêm cả chứng tê dại nặng nề, sắc da tía tối, các khớp xương biến dạng; Đây là do Đàm ứ ngăn trệ, lạc mạch không thông gây nên; điều trị nên hoá đàm trừ ứ, thông lạc giảm đau, cho uống Hoạt lạc đan (Thái bình huệ dân hoà tễ cục phương)
– Trong bệnh Phế ung xuất hiện chứng Đàm ứ câu kết, có chứng trạng đặc điểm họ mửa ra đờm mủ có mùi tanh hôi hoặc khạc ra huyết, vùng ngực trướng đầy đau nhói, về cơ chế bệnh là tà nhiệt đờm trọc và ứ huyết úng tắc ở trong Phế, kết lại thành ung, điều trị theo phép quét đàm trừ ứ, thanh nhiệt khai kết, cho uống bài Thiên kim vi hành thang (Bi cấp thiên kim yếu phương) hợp với Tiểu hoạt lạc thang (Thương hàn luận).
– Trong bệnh Cuồng xuất hiện chứng Đàm ứ câu kết, biểu hiện lâm sàng ngoài việc gào thét la mắng cuồng táo không yên, hoặc ngớ ngẩn đần độn, tinh thần nhạt nhẽo thuộc phạm vi tinh thần thất thường, còn kèm theo sắc mặt tối xạm, chất lưỡi tía tối, mạch Trầm Sắc là những đặc trưng do ứ huyết ngăn trở ở trong; đây là do đàm và ứ phạm vào Tâm, quấy rối thần minh gây nên; Điều trị nên Trấn Tầm quét đàm, hoạt huyết hoá ứ, chọn dùng phương Điên cuồng mộng tình thang (Y lâm cải thác).
– Trong di chứng Trúng phong xuất hiện chứng Đàm ứ câu kết, ngoài những chứng trạng bán thân bất toại, tay chân tế dại miệng mắt méo xếch nói năng khó khăn, còn có các đặc điểm là sắc mặt tối xạm chất lưỡi tía tối và có nốt xuất huyết; Đây là do đàm ứ câu kết, lạc mạch tê nghẽn, khí không lưu thông, huyết không thấm nhuần, chân tay mất sự nuôi dưỡng gây nên; điều trị nên ích khí hoạt huyết, khư phong hoá đàm, cho uống bài Bổ dương hoàn ngũ thang (Y lâm cải thác) gia Viễn trí, Xương bồ, Nam tinh, Bạch phụ tử v.v.
– Trong bệnh Trưng Hà xuất hiện chứng Đàm ứ câu kết, có chứng trạng trong bụng có khối sưng ấn vào không di chuyển, bụng trướng hoặc đau nhói, lưỡi tối rêu nhớt v.v. Đây là đàm ứ câu kết tích lại thành hòn khối; điều trị nên hoạt huyết hoá đàm, tiêu trưng tán kết, cho uống Miết giáp tiễn hoàn (Kim quỹ yếu lược) hoặc Hoá tích hoàn (Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc).
Chứng Đàm ứ câu kết thường gặp ở người Dương khí bất túc; Dương khí bất túc thì việc vận chuyển khí bị yếu, thuỷ thấp ứ đọng thì thành đàm, huyết đi bị nghẽn thì thành ứ, huống chị đàm trệ làm trở ngại huyết mà thành huyết ứ, huyết ứ thấp trệ thì làm cho đàm ngưng trệ; sau khi đàm ứ đã hình thành, vì sự chu lưu của huyết không thu sướng lại càng làm hao tổn phần Dương. Loại người Dương hư lại có kiêm cả đàm ứ câu kết này, ngoài những chứng trạng do đờm ứ câu kết ra, còn có thể xuất hiện những chứng hậu về dương hư tinh thần mỏi mệt, đoản hơi biếng nói, sợ lạnh, chân tay lạnh, miệng nhạt không khát, tiểu tiện trong đại tiện nhão v.v. Đàm ứ là âm tà, về ban đêm hoặc gặp lạnh, âm lại được âm hỗ trợ cho nên chứng trạng nặng thêm. Biểu hiện chủ yếu của chứng dương hư là tinh thần mỏi mệt, đoản hơi biếng nói, sợ lạnh tay chân lạnh, miệng nhạt không khát, tiểu tiện trong, đại tiện nhão. Gặp tình huống này, dùng thuốc hoá đàm hoạt huyết trong điều trị chứng Đàm ứ câu kết thường phối ngũ với thuốc ôn dương ích khí. Chứng Đàm ứ câu kết nói chung bệnh tình khá dài, dằng dai khó khỏi, ở tuổi thanh niên thường biểu hiện trong các bệnh Tý chứng, Phế ung và chứng Cuồng; ở người cao tuổi thường biểu hiện trong các bệnh Hung tý hoặc di chứng Trúng phong; Cho nên biểu hiện lâm sàng chứng Đàm ứ câu kết vì mỗi người có khác nhau, điền trị cũng phải “nhân nhân chế nghi”.
III. Chẩn đoán phân biệt:
– Chứng Phong đàm và chứng Đàm ứ câu kết đều có những chứng trạng cộng đồng của di chứng Trúng phong như bán thân bất toại, chân tay tê dại, miệng mắt méo lệch,khó nói năng v.v. Cho nên phải chẩn đoán phân biệt kỹ. Chứng Đàm ứ câu kết là do công năng của Tạng Phủ không điều hoà, khí huyết tân dịch vận hành bị trở ngại hoặc là Tỳ thấp sinh đờm, đờm trệ thành huyết ứ, hoặc huyết bị nghẽn trở mà thành ứ, ứ huyết ngăn trở ở trong, tân dịch vận hành không thông mà sinh đàm. Đàm với ứ câu kết, làm trở ngại khí cơ gây nên bệnh.
Đàm ứ câu kết trong di chứng Trúng phong có đặc điểm là sắc mặt tối xạm, lưỡi tía có nốt ứ huyết là những biểu hiện do huyết ứ. Chứng Phong đàm là do nội thương mệt nhọc, Tỳ mất sự kiện vận, đàm trọc từ trong sinh ra, Can phong kèm theo với Đàm len lỏi trong lạc mạch gây nên bệnh. Tựu trung di chứng Trúng phong trong họng có tiếng đàm, chóng mặt hoa mắt, rêu lưỡi dầy nhớt, mạch Huyền Hoạt đó là hiện tượng phong đàm quấy nhiễu ở trên. Nếu phân biệt theo bệnh trình, thì di chứng Trúng phong của chứng phong đàm xuất hiện sớm hơn, bệnh trình khá ngắn; Còn chứng Đàm ứ câu kết xuất hiện về sau, bệnh trình khá dài. Chứng Phong đàm để lâu ngày chữa không khỏi, đa số phát triển thành chứng Đàm ứ câu kết.
– Chứng Huyết ứ với chứng Đàm ứ câu kết, cả hai chứng có thể biểu hiện chứng trạng cộng đồng như đau nhói, điểm đau cố định, trong cơ thể có hòn khối hoặc là cuồng táo không yên. Chứng Huyết ứ là do những nguyên nhân khí hư, khí trệ và huyết hàn, khiến cho huyết lưu hành không trôi chẩy phát sinh ngưng trệ không thông. Đặc điểm lâm sàng của chứng Huyết ứ là da dẻ khô ráp, môi và móng tay chân tím tái, chất lưỡi tía tối hoặc có nốt xuất huyết, mạch Sác. Còn chứng Đàm ứ câu kết có đặc điểm chung là cục bộ tê dại nặng nề, chất lưỡi và rêu lưỡi dầy nhớt. Một số người bệnh biểu hiện chứng Huyết ứ, nếu dùng phép hoạt huyết hoá ứ điều trị lâu ngày không khỏi, tuy chưa có biểu hiện là đàm trệ, cũng nên suy nghĩ tới quan hệ giữa Đàm với ứ, cứ theo phép chữa chứng Đàm ứ câu kết mà điều trị thường có kết quả.
IV. Trích dẫn y văn:
– Chứng Hung tý tức là Vị tý. Phía trước ngực đầy tức ngưng kết không thông, ăn vào mửa ra ngay không nuốt trôi xuống cổ, hoặc có lúc gây nôn; đó là chứng Hung tý. Nguyên nhân chứng này là do ăn uống không điều độ, đói no thất thường khiến đàm ứ đọng huyết úng trệ, Trung tiêu bị vẩn đục nên xuất hiện chứng trạng không ăn được và đau khó chịu (Tý chứng – Chứng nhân mạch trị).
– Chứng thứ bẩy là Thực đàm, ăn uống không tiêu hoặc kiêm có ứ huyết, tạo nên hang hốc, đến nỗi bĩ đầy không thông, nên uống bài Hoàng qua lâu hoàn (Đàm ẩm nguyên lưu – Tạp bệnh nguyên lưu tế chúc).
– Đàm kiêm với ứ huyết tạo thành hang hốc, gây nên bĩ, mạch Trầm Sắc, lâu ngày không khỏi. Chứng này chỉ những người lo buồn ức uất mới mắc, nên điều trị loại Huyết uất; dùng các vị thuốc như Hồng hoa, Quất hồng, Đan bì, Hương phụ, Giáng hương, Tô mộc, Phỉ chấp và Đồng tiện (Bĩ mãn – Loại chứng trị tài).
– Bệnh đã tích luỹ vài năm, thế tất phạm vào Lạc. Đây không phải là Hư chứng, bởi vì bệnh kéo dài thì thể lực xút kém, cứ ăn vào thì khó chịu; hoặc là tình trí uất kết, đàm nhân khí trệ, khí nghẽn trở làm huyết ứ, các đường mạch nghịch loạn, mửa ra những thứ uế trọc mà đại tiện thì bí, Thầy thuốc thấy mình mẩy chân tay lạnh cho là hư thoát, dùng Lý trung và Phụ tử để ôn lý phù dương. Nghĩ như Dương khí thuộc vô hình, huống chi bệnh phát có nguyên nhân, dứt khoát không phải là Dương vi khí thoát. Nhớ lại năm đó mắc bệnh, nghĩ là Can bệnh, dùng đến thuốc sơ thông khí huyết đều kết quả, nếu bệnh chưa hoàn toàn khỏi, chỉ vì thèm muốn ăn uống quá nhiều. Mùa Hạ chuyên dùng thuốc thuộc Thái âm Dương minh; Bây giờ nơi đau ở Trung quản, lâu ngày chất vẩn đục tụ lại, nên dùng các vị đạm vị nhạt mà nuôi dưỡng nhẹ nhàng. Đầu tiên dùng tới Trúc lịch chế thuốc viên, dùng vào buổi sáng, lập riêng phương pháp thông ứ, dùng các vị để làm viên như Tô mộc, Nhân sâm, Uất kim, Đào nhân, Quý vĩ, Bá tử nhàn, Hổ phách, Xung uất, Hồng tảo nhục (Diệp Thiên Sỹ y án – Thanh đại danh y y án tinh hoa).
Nguồn: Chẩn đoán phân biệt chứng hậu trong đông y – Quý Thiệu Lương
🔎 Tra cứu thông tin tiện ích hơn trên App Tuệ Y
🌐 Link tải CH Play: Tuệ Y